Trang 100 bài 35. Theo tôi bài này Hồ Xuân Hương ghi lại tình cảm mình sau khi gặp Tri Phủ Tam Đái Trần Phúc Hiển khoảng năm 1811. Trần Phúc Hiển trấn nhậm tại Tam Đái (tên cũ phủ Vĩnh Tường) trong ba năm. Anh hùng Nguyễn Thái Học sinh ngày 1/12/1902) tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên cũ (nay là thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Ông là con cả của cụ Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh. Gia đình ông là một gia đình Biết chuyện, ông Cả Kiểm bèn đâm đơn kiện ông Xã Hạc lên quan tri huyện, rồi quan tri phủ. Ngày ấy, vùng Ba Tri này còn thuộc địa phận hành chánh của tỉnh Vĩnh Long nên quan tri phủ Vĩnh Long xử cho ông Xã Hạc thắng kiện với lý lẽ theo kiểu "lệ làng" là đất, sông Giấy dán tường Regina 88283-3 - , 860,000.00, Giấy dán tường Hàn QuốcGiấy dán tường Regina 88283-3 - , 860,000.00, Giấy dán tường ReginaGiấy dán tường Regina 88283-3 - , 860,000.00, Giấy dán tường Hàn QuốcGiấy dán tường Regina 88283-3 - &nGiấy d Phụ Kiện Đà Chốt; Trang Trí Ngoài hồ xuân hương cũng là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng: bánh trôi nước, kẽm trống, nhớ người cũ, viết gửi cần chánh học sĩ nguyễn hầu, khóc ông phủ vĩnh tường, khóc tổng cóc, làm lẽ, tự tình, mời trầu, đề đền sầm nghi đống, đèo ba dội, hang cắc cớ, cái quạt, đánh đu, thiếu nữ ngủ ngày, không chồng mà chửa, chùa quán sứ, sư hổ mang, sư bị … Wz48. Tiếng Việt[sửa] Cách phát âm[sửa] IPA theo giọng Hà Nội Huế Sài Gòn xawk˧˥kʰa̰wk˩˧kʰawk˧˥ Vinh Thanh Chương Hà Tĩnh xawk˩˩xa̰wk˩˧ Chữ Nôm[sửa] trợ giúp hiển thị và nhập chữ Nôm Cách viết từ này trong chữ Nôm Động từ[sửa] khóc khóc Chảy nước mắt vì xúc động, vì đau xót. Chị vừa chạy, vừa khóc, nhưng khóc không ra tiếng Nguyên Hồng Nói trẻ em kêu gào. Con có khóc mẹ mới cho bú. tục ngữ Tỏ lòng thương tiếc bằng lời than vãn, lời văn, bài thơ. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê; Hồ Xuân Hương khóc ông phủ Vĩnh Tường. Than phiền. Khóc vì nỗi thiết tha sự thế, ai bày trò bãi bể nương dâu Cung oán ngâm khúc Dịch[sửa] chảy nước mắt, trẻ em kêu gào Tiếng Anh to cry, to weep, to burst into tears, to shed tears Tiếng Pháp pleurer Tiếng Tây Ban Nha llorar Tiếng Trung Quốc 哭 khốc, ku Tham khảo[sửa] "khóc". Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển tiếng Việt miễn phí chi tiết Thông tin chữ Hán và chữ Nôm dựa theo cơ sở dữ liệu của phần mềm WinVNKey, đóng góp bởi học giả Lê Sơn Thanh; đã được các tác giả đồng ý đưa vào đây. chi tiết Tập thơ bản gốc, chỉ có duy nhất 1 bản, bị thất lạc nhiều năm, rất may, theo một nguồn tin mà tôi được biết, Viện Văn học Việt Nam đã tìm lại được. Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại, thì chữ Lưu có bộ ngọc ở bên, chỉ quê hương Quỳnh Lưu, không phải là lưu biệt hay lưu truyền, còn Hương là tên tác giả Hồ Xuân Hương. Vậy đây là thơ của người Quỳnh Lưu tên là Xuân Hương, đã được ký ghi lại. Đặc biệt, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại khẳng định “LHK là một tài liệu chân chính, đáng tin cậy và trong trường hợp này, không thể có vấn đề, có kẻ nào đó muốn chơi khăm, làm ra tài liệu giả mạo để đánh lạc hướng nghiên cứu của chúng ta”. LHK và lai lịch phát hiện nó - Trần Thanh Mại, toàn tập, tập III, Nhà xuất bản Văn học, 2004 .Tượng đài nữ sĩ Hồ Xuân Hương được đặt tại khu đền thờ của dòng họ Hồ tại làng Quỳnh Lưu, Nghệ đây, báo Văn Nghệ số ra ngày 26/5/2018 có đăng bài của nhà thơ Thạch Quỳ “Về bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương”. Trong bài này, ông Thạch Quỳ đã có một nhận xét rất đúng và rất đáng chú ý “Rõ ràng là đang có vấn đề khúc mắc và chưa hợp lý ở đây!”. Ông nhận ra như thế, nhưng cách lý giải của ông trong việc tìm ra ngọn nguồn bài thơ lại có tính suy đoán. Mà ông cũng nói rõ ràng là ông chỉ suy đoán có thể là như vậy thôi. Vì ông được coi là ông phủ Vĩnh Tường đã chết vì án tử hình năm 1819, mà 3 năm sau, năm 1822, mới có tên phủ Vĩnh Tường. Hay là bà HXH trở về nơi có tên mới là phủ Vĩnh Tường sau năm 1822?Ông Thạch Quỳ thấy trong tập thơ LHK của HXH không có bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường, thực ra, toàn bộ thơ Nôm được truyền tụng và được coi là của HXH, số này theo các tài liệu biên khảo là non 200 bài, sau thu lại còn khoảng 50 - 60 bài, với khoảng 130 dị bản - vì là thơ dân gian, mỗi nơi, mỗi người, chép mỗi khác, rồi cứ thế mà đem in, do bán rất chạy - trong đó có khoảng 20-30 bài được in đi in lại nhiều lần, coi là “bản chính thức của thơ Nôm truyền tụng HXH”. Tất cả đều có một nét chung là nói về “cái ấy” và “chuyện ấy”…. và đều không có trong LHK. Và những dấu ấn đó được coi là “độc đáo, kỳ lạ”, mà trong công trình nghiên cứu của nhà thơ Xuân Diệu, viết và sửa trong 22 năm 1958 - 1980 HXH Bà Chúa thơ Nôm có đoạn, Xuân Diệu viết “hiện tượng độc đáo kỳ lạ, có thể nói là có một không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kỹ nữ” trang 377- 378, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học, 1988 - tác phẩm đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, đợt 1 năm 1996. Sách Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Trung tâm Từ điển học và Nhà xuất bản Đà Nẵng, in năm 2002, do GS. Hoàng Phê chủ biên, có bút tích của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, giải nghĩa Kĩ nữ là gái mại dâm là làm đĩ. Còn nhà thơ họ Hồ Quỳnh Đôi không phải là “kỹ nữ” thì đã rõ, không cần phải bàn. Trong bài Tựa của Tốn Phong in ở đầu tập LHK, HXH nói với Tốn Phong rằng “Đây là toàn bộ thơ của cuộc đời tôi từ trước đến nay, nhờ ông viết cho một bài tựa”. Vậy theo lời của chính HXH thì bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường và tất cả các bài thơ Nôm truyền tụng đã nói trên, vẫn gán cho bà - những bài hoàn toàn không có trong tập LHK - là không phải thơ của bà vậy. Đánh giá thơ bà mà lại cứ tự ý và đơn phương gạt bỏ ý kiến xác nhận bản quyền của chính tác giả là rất buồn cười và hoàn toàn không khoa học. Đây cũng chính là việc chúng ta cần làm, để trả lại giá trị đích thực cho bà, minh oan cho bà là bà không từng là kỹ nữ, ở trong các “nhà chứa”, trong các “lầu xanh”, như một số sách giai thoại và biên khảo trước đó đã in ra, từ trước và sau năm 1913, mà Xuân Diệu căn cứ vào đó để viết đoạn văn đã dẫn ông “phủ Vĩnh Tường” là ai? Là ông Trần Phúc Hiển, chồng bà HXH, từng làm quan Tham hiệp trấn Yên Quảng tỉnh Quảng Ninh hiện nay bị tử hình năm 1819 vì tội ăn hối lộ 700 quan tiền, trong việc giải quyết đất đai tại châu Hải Ninh, thuộc trấn/tỉnh này. Năm 1822 phủ Tam Đái nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc mà ông Hiển từng làm quan ở đó 10 năm trước, mới đổi tên là phủ Vĩnh Tường. Vậy ông Hiển “không liên quan gì đến hai chữ Vĩnh Tường”, ông Thạch Quỳ nói đúng. Xin lưu ý, năm 1822, cũng chính là năm bà HXH mất theo bia đá dựng ở đầu làng bà ở Nghệ An, ghi rõ bà mất năm 1822 thì rất có thể, chính bà HXH cũng không hề biết có phủ tên là phủ Vĩnh Tường. Và như thế, bà HXH cũng “không liên quan gì đến hai chữ Vĩnh Tường”.Ông Tốn Phong nhận xét Thơ HXH “xuất phát từ cảm hứng nhưng biết dừng lại ở phạm vi lễ nghĩa. Vui mà không đến nỗi buông tuồng...”. Đọc lời Tựa LHK mới thấy Tốn Phong nhận xét thơ HXH, tháng 3 năm 1814, như thế là rất chuẩn xác. Xin hãy đọc toàn bộ LHK để thấy HXH “học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép tắc mà văn hoa, thực là một bậc tài nữ”, như nhận xét rất đúng của Tốn Phong. Tuyệt đối không có bất cứ một câu nào, một chữ nào, hay một “ý tại ngôn ngoại” nào… ngay cả kẻ gian dâm có đọc thơ bà trong tập đúng là của bà này, cũng không bao giờ thấy váng vất “cái ấy” và “chuyện ấy”, với nhiều góc nhìn cận cảnh và các động tác cụ thể chỉ có ở “cánh mày râu”… Thơ thật của bà, đúng như ông Tốn Phong đã khẳng định giá trị, hoàn toàn không phải thế. Đẳng cấp xã hội phải là quý tộc và phẩm chất thơ của bà phải như thế nào có văn hóa cao, hào hoa trang nhã - đúng như nó đã có trong LHK - mới được Tùng Thiện vương Miên Thẩm, con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, em ruột vua Thiệu Trị, cháu nội vua Gia Long nhà Nguyễn, chú ý, đọc và viết về bà những dòng thơ rất trân trọng và đồng cảm như trong bài Long Biên trúc chi từ 1842 mà nhiều người đã biết. Và tôi tin, tác giả LHK nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại đã khẳng định “LHK là một tài liệu chân chính” - đã dẫn ở trên, dứt khoát không thể viết những câu rất mất vệ sinh “Chành ra ba góc, da còn thiếu”/“Trưa trật nào ai móc kẽ rêu“/“Dưới khe nước rỉ mó lam nham…” vân vân và vân vân…, vì 2 loại thơ này, trái ngược nhau như nước với lửa. Đây là thơ Nôm dân gian đầu thế kỷ XX, sớm nhất cũng là cuối thế kỷ XIX - nghĩa là sau khi bà đã mất từ 50 - 60 năm đến non 100 năm, mới có năm 1842, khi Tùng Thiện vương viết Long Biên trúc chi từ, chắc chắn chưa có - với ngụ ý chống mọi lề thói phong kiến cổ hủ ràng buộc con người và thói đạo đức giả “Ban ngày quan lớn như thần/Ban đêm quan lớn lần mần như ma” mà có người cho là thơ của Nguyễn Công Trứ, thời Nguyễn. Bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường… nằm trong số ấy. Tôi rất tin là không bao giờ có một bà vợ, dù ngu độn hoặc dở người đến mấy, lại khóc chồng chưa kể chồng chết vì tội phải tử hình mà khóc là cái “cán cân tạo hóa” của ông đã rơi mất và cái “miệng túi càn khôn” của tôi đã khép lại từ lúc ông chết rồi… rất thiếu văn hóa và vô cùng phản cảm… chúng ta đều biết hai cái đó là cái gì rồi; bây giờ trong gia đình của bất cứ ai, nếu có một bà vợ khóc chồng chết mà khóc như thế, liệu anh em con cháu nhà chồng có để cho bà ta yên không? Gán bài thơ này cho bà, vô hình trung, chúng ta đã xúc phạm bà. Còn thơ dân gian thì lại khác, hoàn toàn khác. Nhưng ta không bàn điều đó tại đó tôi nghĩ, đây là thơ dân gian như nhà nghiên cứu rất đáng kính Trần Thanh Mại đã viết, đó là thơ “nhảm nhí” của “đám mày râu chúng ta”, làm ra cho vui, qua sự nhuận sắc và truyền bá của các ông đồ, rồi cứ thế mà gán cho bà. Tất nhiên, về ý thức phản phong và giá trị nghệ thuật, nó phải thật sự có giá trị thì mới tồn tại được cùng với Truyện Trạng Quỳnh và Truyện Trạng Lợn… Bây giờ đã ở thế kỷ XXI, với tầm trí tuệ của ngày hôm nay, cái điều “uẩn khúc và chưa hợp lý” này, đã có thể làm rõ và kết thúc được rồi. Vấn đề chỉ còn ở chỗ, ta có “dám” kết thúc nó hay không mà thôi, bởi nó đã được Giáo sư Lê Tâm đưa vào sách giáo khoa từ năm 1950 và từ đó tồn tại đến nay, đã trải qua rất nhiều thế hệ. Nhưng tôi rất tin, vấn đề này sẽ được giải quyết dứt điểm và sòng phẳng trên tinh thần khoa học, chỉ còn là thời gian, sớm hơn hay muộn hơn mà thôi. TỪ BÀI THƠ KHÓC ÔNG PHỦ VĨNH TƯỜNG’ ĐƯỢC CHO LÀ CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG * Nhà thơ Hồ Xuân Hương luôn được sự chú ý của dư luận, nhất là từ khi tập thơ Lưu Hương kí của bà được phát hiện từ những năm 60 của thế kỉ trước. Tập thơ bản gốc, chỉ có duy nhất 1 bản, bị thất lạc nhiều năm, rất may, theo một nguồn tin mà tôi được biết, Viện Văn học Việt Nam đã tìm lại được. Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại, thì chữ Lưu có bộ ngọc ở bên, chỉ quê hương Quỳnh Lưu, không phải là lưu biệt hay lưu truyền, còn Hương là tên tác giả Hồ Xuân Hương. Vậy đây là thơ của người Quỳnh Lưu tên là Xuân Hương, đã được ký ghi lại. Đặc biệt, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại khẳng định “Lưu Hương kí là một tài liệu chân chính, đáng tin cậy, và trong trường hợp này, không thể có vấn đề, có kẻ nào đó muốn chơi khăm, làm ra tài liệu giả mạo để đánh lạc hướng nghiên cứu của chúng ta”. Lưu Hương kí và lai lịch phát hiện nó - Trần Thanh Mại, toàn tập, tập III, Nhà xuất bản Văn học, 2004. Tác giả Trần Nhuận Minh Gần đây, báo Văn Nghệ số ra ngày 26/ 5/ 2018, có đăng bài của nhà thơ Thạch Quỳ “Về bài thơ Khóc ông Phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương”. Trong bài này, ông Thạch Quỳ đã có một nhận xét rất đúng và rất đáng chú ý “Rõ ràng là đang có vấn đề khúc mắc và chưa hợp lí ở đây!”. Ông nhận ra như thế, nhưng cách lí giải của ông trong việc tìm ra ngọn nguồn bài thơ lại có tính suy đoán. Mà ông cũng nói rõ ràng là ông chỉ suy đoán có thể là như vậy thôi. Vì ông được coi là ông phủ Vĩnh Tường đã chết vì án tử hình năm 1819, mà 3 năm sau, năm 1822, mới có tên phủ Vĩnh Tường. Hay là bà Hồ Xuân Hương trở về nơi có tên mới là phủ Vĩnh Tường sau năm 1822? Ông Thạch Quỳ thấy trong tập thơ Lưu Hương kí của Hồ Xuân Hương không có bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường, thực ra, toàn bộ thơ Nôm được truyền tụng và được coi là của Hồ Xuân Hương, số này theo các tài liệu biên khảo là non 200 bài, sau thu lại còn khoảng 50 – 60 bài, với khoảng 130 dị bản - vì là thơ dân gian, mỗi nơi, mỗi người, chép mỗi khác, rồi cứ thế mà đem in, do bán rất chạy- trong đó có khoảng 20-30 bài được in đi in lại nhiều lần, coi là “bản chính thức của thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương”. Tất cả đều có một nét chung là nói về “cái ấy” và “chuyện ấy”…. và đều không có trong Lưu Hương kí. Và những dấu ấn đó được coi là “độc đáo, kì lạ”, mà trong công trình nghiên cứu của nhà thơ Xuân Diệu, viết và sửa trong 22 năm 1958 – 1980 Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm có đoạn, Xuân Diệu viết “hiện tượng độc đáo kì lạ, có thể nói là có một không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kĩ nữ.” trang 377- 378, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, 1988 – tác phẩm đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, đợt 1 năm 1996 . Sách Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Trung tâm Từ điển học và Nhà xuất bản Đà Nẵng, in năm 2002, do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, có bút tích của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, giải nghĩa Kĩ nữ là gái mại dâm là làm đĩ. Còn nhà thơ họ Hồ Quỳnh Đôi không phải là “kỹ nữ” thì đã rõ, không cần phải bàn. Trong bài Tựa của Tốn Phong in ở đầu tập Lưu Hương kí, Hồ Xuân Hương nói với Tốn Phong rằng “Đây là toàn bộ thơ của cuộc đời tôi từ trước đến nay, nhờ ông viết cho một bài tựa” Vậy theo lời của chính Hồ Xuân Hương thì bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường và tất cả các bài thơ Nôm truyền tụng đã nói trên, vẫn gán cho bà - những bài hoàn toàn không có trong tập Lưu Hương kí - là không phải thơ của bà vậy. Đánh giá thơ bà mà lại cứ tự ý và đơn phương gạt bỏ ý kiến xác nhận bản quyền của chính tác giả là rất buồn cười và hoàn toàn không khoa học. Đây cũng chính là việc chúng ta cần làm, để trả lại giá trị đích thực cho bà, minh oan cho bà là bà không từng là kĩ nữ, ở trong các “nhà chứa”, trong các “lầu xanh”, như một số sách giai thoại và biên khảo trước đó đã in ra, từ trước và sau năm 1913, mà Xuân Diệu căn cứ vào đó để viết đoạn văn đã dẫn trên. Vậy ông “phủ Vĩnh Tường” là ai? Là ông Trần Phúc Hiển, chồng bà Hồ Xuân Hương, từng làm quan Tham hiệp trấn Yên Quảng tỉnh Quảng Ninh hiện nay bị tử hình năm 1819 vì tội ăn hối lộ 700 quan tiền, trong việc giải quyết đất đai tại châu Hải Ninh, thuộc trấn / tỉnh này. Năm 1822 phủ Tam Đái nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc mà ông Hiển từng làm quan ở đó 10 năm trước, mới đổi tên là phủ Vĩnh Tường. Vậy ông Hiển “không liên quan gì đến hai chữ Vĩnh Tường”, ông Thạch Quỳ nói đúng. Xin lưu ý, năm 1822, cũng chính là năm bà Hồ Xuân Hương mất theo bia đá dựng ở đầu làng bà ở Nghệ An, ghi rõ bà mất năm 1822 thì rất có thể, chính bà Hồ Xuân Hương cũng không hề biết có phủ tên là phủ Vĩnh Tường. Và như thế, bà Hồ Xuân Hương cũng “không liên quan gì đến hai chữ Vĩnh Tường”. Ông Tốn Phong nhận xét Thơ Hồ Xuân Hương "xuất phát từ cảm hứng nhưng biết dừng lại ở phạm vi lễ nghĩa. Vui mà không đến nỗi buông tuồng ..." Đọc lời Tựa Lưu Hương kí mới thấy Tốn Phong nhận xét thơ Hồ Xuân Hương, tháng 3 năm 1814, như thế là rất chuẩn xác. Xin hãy đọc toàn bộ Lưu Hương kí để thấy Hồ Xuân Hương “học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép tắc mà văn hoa, thực là một bậc tài nữ”, như nhận xét rất đúng của Tốn Phong. Tuyệt đối không có bất cứ một câu nào, một chữ nào, hay một “ý tại ngôn ngoại” nào… ngay cả kẻ gian dâm có đọc thơ bà trong tập đúng là của bà này, cũng không bao giờ thấy váng vất “cái ấy” và “chuyện ấy”, với nhiều góc nhìn cận cảnh và các động tác cụ thể chỉ có ở “cánh mày râu“… Thơ thật của bà, đúng như ông Tốn Phong đã khẳng định giá trị, hoàn toàn không phải thế. Đẳng cấp xã hội phải là quí tộc và phẩm chất thơ của bà phải như thế nào có văn hoá cao, hào hoa trang nhã – đúng như nó đã có trong Lưu Hương kí - mới được Tùng Thiện vương Miên Thẩm, con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, em ruột vua Thiệu Trị, cháu nội vua Gia Long nhà Nguyễn, chú ý, đọc và viết về bà những dòng thơ rất trân trọng và đồng cảm như trong bài Long Biên trúc chi từ 1842 mà nhiều người đã biết. Và tôi tin, tác giả Lưu Hương kí nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại đã khẳng định “Lưu Hương kí là một tài liệu chân chính” - đã dẫn ở trên, dứt khoát không thể viết những câu rất mất vệ sinh “Chành ra ba góc, da còn thiếu” / “Trưa trật nào ai móc kẽ rêu“/ “Dưới khe nước rỉ mó lam nham…” vân vân và vân vân …, vì 2 loại thơ này, trái ngược nhau như nước với lửa. Đây là thơ Nôm dân gian đầu thế kỉ XX, sớm nhất cũng là cuối thế kỉ XIX - nghĩa là sau khi bà đã mất từ 50 – 60 năm đến non 100 năm, mới có năm 1842, khi Tùng Thiện vương viết Long Biên trúc chi từ, chắc chắn chưa có - với ngụ ý chống mọi lề thói phong kiến cổ hủ ràng buộc con người và thói đạo đức giả “Ban ngày quan lớn như thần / Ban đêm quan lớn lần mần như ma” mà có người cho là thơ của Nguyễn Công Trứ, thời Nguyễn. Bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường… nằm trong số ấy. Tôi rất tin là không bao giờ có một bà vợ, dù ngu độn hoặc dở người đến mấy, lại khóc chồng chưa kể chồng chết vì tội phải tự hình mà khóc là cái “cán cân tạo hóa” của ông đã rơi mất, và cái “miệng túi càn khôn” của tôi đã khép lại từ lúc ông chết rồi… rất thiếu văn hóa và vô cùng phản cảm… chúng ta đều biết hai cái đó là cái gì rồi; bây giờ trong gia đình của bất cứ ai, nếu có một bà vợ khóc chồng chết mà khóc như thế, liệu anh em con cháu nhà chồng có để cho bà ta yên không? Gán bài thơ này cho bà, vô hình chung, chúng ta đã xúc phạm bà. Còn thơ dân gian thì lại khác, hoàn toàn khác. Nhưng ta không bàn điều đó tại đây. Do đó tôi nghĩ, đây là thơ dân gian như nhà nghiên cứu rất đáng kính Trần Thanh Mại đã viết, đó là thơ “nhảm nhí” của “đám mày râu chúng ta”, làm ra cho vui, qua sự nhuận sắc và truyền bá của các ông đồ, rồi cứ thế mà gán cho bà. Tất nhiên, về ý thức phản phong và giá trị nghệ thuật, nó phải thật sự có giá trị thì mới tồn tại được cùng với Truyện Trạng Quỳnh và Truyện Trạng Lợn… Bây giờ đã ở thế kỉ XXI, với tầm trí tuệ của ngày hôm nay, cái điều “uẩn khúc và chưa hợp lí” này, đã có thể làm rõ và kết thúc được rồi. Vấn đề chỉ còn ở chỗ, ta có “dám” kết thúc nó hay không mà thôi, bởi nó đã được giáo sư Lê Tâm đưa vào sách giáo khoa từ năm 1950 và từ đó tồn tại đến nay, đã trải qua rất nhiều thế hệ. Nhưng tôi rất tin, vấn đề này, sẽ được giải quyết dứt điểm và sòng phẳng trên tinh thần khoa học, chỉ còn là thời gian, sớm hơn hay muộn hơn mà thôi.... *. TRẦN NHUẬN MINH Địa chỉ số nhà 47, Lê Thánh Tông, Hồng Gai, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Email trannhuanminh44 Điện thoại ............................................................................................................. - Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày - Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. - Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích đăng lại. . Khấp Vĩnh Tường Quan Hồ Xuân Hương Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi Cái nợ phù sinh có thế thôi Chôn chặt văn chương ba thước đất Ném tung hồ thỉ bốn phương trời Nắm xương dưới đất chau mày khóc Hòn máu trên tay mỉm miệng cười Đã thế thời thôi cho mát mẻ Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi Bản khắc 1914 Bản khảo dị – Bản khắc 1922 Tựa đề Khấp quan phủ Câu 1 Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi Câu 2 Cái nợ ba sinh đã trả rồi Câu 4 Tung hê hồ thỉ bốn phương trời Câu 5 Cán cân tạo hóa rơi đâu mất Câu 6 Miệng túi càn khôn thắt lại rồi Câu 7 Hăm bảy tháng trời là mấy chốc – Bản Quốc văn tùng ký Tựa đề Khóc ông phủ Vĩnh Tường Câu 1 Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi Câu 2 Cái nợ ba sinh đã trả rồi Câu 4 Tung hê hồ thỉ bốn phương trời Câu 5 Hạt sương dưới chiếu cau mày khóc Câu 6 Giọt máu trên tay mỉm miệng cười Câu 7 Năm bảy tháng trời là mấy chốc Câu 8 Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi – Bản Xuân Hương thi sao Tựa đề Khấp phu quân Vĩnh Tường phủ quan Câu 2 Thân thể coi xem đã khác rồi Câu 6 Miệng túi càn khôn thắt lại thôi Câu 7 Một tháng mấy ngày nên nỗi thế – Bản Tạp thảo tập Tựa đề Hồ Xuân Hương khấp Vĩnh Tường phủ tri phủ Câu 2 Thân thể coi xem đã khác rồi Câu 6 Miệng túi càn khôn thắt lại thôi Câu 7 Một tháng mấy ngày nên nỗi thế – Bản Quế Sơn thi tập Tựa đề Vô đề 10 Câu 2 Ngoài ba mươi tuổi cũng một đời Câu 4 Phá tan hồ thỉ bốn phương trời Câu 7 Vì chữ tình chung nên phải viếng – Bản Xuân Hương thi vịnh Tựa đề Khấp phu vi Vĩnh Tường tri phủ Câu 1 Ngàn năm ông phủ Vĩnh Tường ôi Câu 2 Trống giục chiêng đưa biết mấy hồi Câu 5 Cán cân tạo hóa rơi đâu mất Câu 6 Miệng túi càn khôn thắt lại rồi Câu 7 Liệu nẻo mà đi cho mát mẻ Câu 8 Ngàn năm ông phủ Vĩnh Tường ôi – Bản Đăng khoa lục sưu giảng Tựa đề Điếu quan phủ Vĩnh Tường Câu 2 Võng giá nghênh ngang xếp cả rồi Câu 5 Vướng chân trong ngục ôm lòng khóc Câu 6 Chảy máu trên tay mỉm miệng cười Câu 7 Phúc quả công danh phó trả trời Chắc không ít bạn đọc cũng sẽ băn khoăn như chúng tôi. Chính vì nhan đề bài thơ là Khóc ông phủ Vĩnh Tường, và nội dung bài thơ có nhắc hai lần đến ông phủ Vĩnh Tường “Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!” mà nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đã thận trọng xếp bài này vào mục tồn nghi! Đào Thái Tôn, Hồ Xuân Hương tiểu sử văn bản tiến trình huyền thoại dân gian hóa”, NXB Hội Nhà văn 1999, trang 350-351. Theo sách của Hoa Bằng, ông phủ Vĩnh Tường là một thủ khoa không rõ tên. Ông được Xuân Hương ra đề làm bài thơ Thạch liên thiên Đá liền trời. Ông bí quá chỉ viết được mấy chữ “Thiên thạch nguyên lai”. Nghe con hầu của Xuân Hương nói mát, ông phát uất, ngã bổ nhào xuống đất. Người em vội đỡ dậy, an ủi, rồi nối hộ thành 2 câu“Thiên thạch nguyên lai bản thậm huyềnNhất triêu vân vũ, thạch liên thiên”Nghĩa là những đá do trời sinh ra nguyên lai vốn huyền bí lắm, một sớm kia trải qua “mây mưa” thì sắc đá lẫn với da trời trông như liền tỉnh dậy, ông thủ khoa gắng làm nốt bài thơ, được Xuân Hương khen là hay và rồi Xuân Hương đẹp duyên cùng ông ấy Tác giả chú Đoạn nói về chuyện ông thủ khoa làm thơ “hạch liên thiên này là dựa theo tài liệu trong Nam thi hợp tuyển, quyển nhất, của Nguyễn Văn Ngọc. Người ta truyền rằng ông thủ khoa đó tức là ông phủ Vĩnh Tường sau này Hoa Bằng – Hồ Xuân Hương nhà thơ cách mạng, nxb Bốn Phương, 1950, tr 18 -20.TS Đào Thái Tôn cho bài này vào mục nghi vấn, bởi lẽ “Về bài thơ này, nếu đây là bài thơ khóc viên quan đương chức, làm quan tri phủ Vĩnh Tường thì rõ ràng là không phải của Hồ Xuan Hương. Vì mãi đến năm Minh Mệnh thứ 3 1822 huyện Tam Đái mới đổi tên thành phủ Vĩnh Tường. Điều này không phù hợp với Hồ Xuân Hương đã làm vợ góa ông Tham Hiệp xứ Yên Quảng – đã mất năm 1819. Bởi lúc ấy, Xuân Hương đã luống tuổi, không thể nào khoác chồng như thế” Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, Nhà nghiên cứu viết tiếp “Tất cả các văn bản khảo sát đều chép bài này Landes 1893; các bạn khắc ván 1909, 1914, 1921, 1922, Xuân Lan 1914; Đông Châu, Văn đàn bảo giám, 1926. Sách đăng khoa lục sưu giảng A 224 chép bài này như sau “Nghìn năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!Võng giá nghênh ngang xếp cả rồiChôn chặt văn chương ba thước đấtTung hê hồ thỉ bốn phương trờiVướng chân trong ngục ôm lòng khócChảy máu trên tay mỉm miệng cườiPhú quý công danh thôi phó trảTrăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!”.Phải nói là TS. Đào Thái Tôn chặt chẽ và chính xác khó lòng bắt bẻ! Thế nhưng, TS Đào Thái Tôn quên mất một điều rằng Hồ Xuân Hương còn sống đến khi Tam Đái đổi thành phủ Vĩnh Tường năm 1822. Và một điều rất rất quan trọng khác, là Hồ Xuân Hương không thể không khóc ông Trần Phúc Hiển, vì đấy là một người có chữ nghĩa, một bạn tình với tên Mai Sơn Phủ, một bạn đời đem đến cho bà những ngày đẹp đẽ, thong dong. GS Hoàng Xuân Hãn bình rằng khi Xuân Hương làm vợ bé Trần Phúc Hiển “Giai đoạn chừng ba bốn năm, đến năm 1818, thật là khoảng thời gian thỏa mãn nhất của Nàng”.Và TS Đào Thái Tôn cũng không chú ý đầy đủ đến việc Trần Phúc Hiển là một tội phạm của Triều đình bị xử rất quan tâm đến nhận xét sắc sảo và giàu tính thuyết phục của GS. Hoàng Xuân Hãn, khi ông cho rằng “Chắc vì tiếng chê lẳng lơ ấy và cuối cùng chồng bị tội xử tử, cho nên những văn nhân đương thời và sau không ai giữ lại những chuyện về Nàng trong kí tải của mình, khiến tiểu sử và thi văn của Nàng bị mai một về bút chứng, và chỉ còn lại qua sự xóa nhòa hoặc bóp nắn của kí ức thời gian” Trích theo Lê Trí Viễn, sách đã dẫn, tôi cũng quan tâm đến ngôi “Mộ Giày Thầy Lánh” mà nhà nghiên cứu Nghiêm Thị Hằng đã cho rằng đó là mộ ông Trần Phúc Hiển ở Tam Kì, Quảng Nam Nghiêm Thị Hằng, Giải mã bí ẫn nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Nxb Hồng Đức, 2021, tr. 258.Như vậy, có thể đoán định mà không sai rằng Hồ Xuân Hương khóc chồng là Trần Phúc Hiển, là Tham hiệp trấn Yên Quảng. Nhưng ông Hiển là tội phạm của Triều đình, nên một cách khéo léo để tránh những dị nghị của người đời, nhà thơ đã đặt nhan đề “Khóc ông phủ Vĩnh Tường” vừa hợp lí, hợp tình và tránh những đàm tiếu không hay. Tuy nhiên, như chúng ta thấy trong một dị bản mà TS Đào Thái Tôn cũng cấp; người ta đã thêm vào những câu mà người vợ yêu quý chồng không ai nỡ nhắc“Võng giá nghênh ngang xếp cả rồiVướng chân trong ngục ôm lòng khóc”Nhà nghiên cứu Hoa Bằng cung cấp hai câu dị bản khác “Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc” “Giọt máu trên tay mỉm miệng cười”Hoa Bằng, sách đã dẫn, tr. 19-20.Nói tóm lại, trong quan niệm khắt khe của dư luận thời bấy giờ, việc liên quan đến tội phạm của Triều đình người ta thường có thái độ lảng tránh. Nhiều người không muốn để lại dấu vết trong kí tải của mình như GS. Hoàng Xuân Hãn viết. Ngay cả người trong cuộc như Hồ Xuân Hương, khóc người bạn tình, người bạn đời mà mình yêu quý cũng có ý né dư luận. Bởi thể mà khóc chồng, khóc ông Tham Hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, bà lại viết Khóc ông phủ Vĩnh Tường, mà cũng không phải là Khóc ông phủ Tam Đới, hoặc viết trực tiếp Khóc Mai Sơn Phủ. Thì ngay mộ của ông Trần Phúc Hiển cũng có ghi tên đàng hoàng đâu. Để cho hậu thế nghĩ rằng “Mộ Giày Thầy Lánh” chính là mộ của ông như nhà nghiên cứu Nghiêm Thị Hẳng phỏng đoán!Có lẽ vấn đề là như vậy chăng?

khóc ông phủ vĩnh tường